VQ Make by Viettel: Ôm trọn vùng trời quốc gia

Tổ hợp khí tài chỉ huy điều khiển được xem như bộ não của các loại khí tài. Hệ thống quản lý vùng trời là một trong những cấu phần quan trọng nhất của tổ hợp ấy. Việc các kỹ sư của Tổng Công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel (VHT) chế tạo thành công hệ thống quản lý vùng trời VQ không chỉ đánh dấu bước phát triển mới của công nghiệp quốc phòng mà còn tạo bước đột phá quan trọng trong quản lý, bảo vệ vùng trời quốc gia. Trước Việt Nam, chỉ có 8 quốc gia có nền công nghệ và tiềm lực kinh tế đủ khả năng nghiên cứu chế tạo thành công sản phẩm có tính năng tương tự.

HÀNH TRÌNH CHINH PHỤC HỆ THỐNG QUÂN SỰ ĐỒ SỘ VQ1-M

Kể từ khi Việt Nam hội nhập quốc tế, ngành hàng không liên tục phát triển, mật độ các chuyến bay trên vùng trời nước ta ngày càng tăng. Hiện có khoảng hơn 4.000 chuyến bay/ngày. Ngoài ra, còn có hoạt động bay không có trong kế hoạch, dự báo bay của không quân các nước, nhất là trên khu vực biển Đông và vùng trời tiếp giáp. Do vậy, nếu thực hiện theo cách truyền thống sẽ dẫn đến thông tin tình báo trên không bị chậm đáng kể, không còn nhiều ý nghĩa cho việc quản lý, điều hành bay; đặc biệt khi có máy bay lạ đột nhập vào vùng trời nước ta sẽ làm lỡ thời cơ hạ lệnh cho các lực lượng chuyển cấp làm nhiệm vụ tác chiến. 

Trước thực tế đó, năm 1998, Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) đã được Chính phủ cho triển khai Dự án xây dựng hệ thống quản lý và bảo vệ vùng trời quốc gia VQ9801. Năm 2005, Dự án hoàn thành và đưa vào trực ban sẵn sàng chiến đấu, quản lý vùng trời, góp phần nâng cao khả năng quản lí vùng trời sẵn sàng chiến đấu của Quân chủng lên một bước. Tuy nhiên, do ngân sách đầu tư hạn chế nên quy mô của hệ thống VQ9801 mới chỉ nằm ở khu vực miền Bắc và các thiết bị cả về phần cứng và hệ thống phần mềm đều do nước ngoài cung cấp. Năm 2014, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Quân chủng PK-KQ và Tổng Công ty Viễn thông Quân đội phối hợp xây dựng hệ thống VQ1-M. Quá trình triển khai gồm 2 giai đoạn chính: Giai đoạn 1 nghiên cứu xây dựng, triển khai một hệ thống tự động hóa, thực hiện chức năng cảnh giới vùng trời Quốc gia; Giai đoạn 2 nghiên cứu xây dựng, phát triển Hệ thống tự động hóa chỉ huy, điều hành tác chiến PK-KQ hiện đại, để thực hiện chức năng bảo vệ vùng trời Quốc gia. 

Mô hình hệ thống cảnh giới và bảo vệ vùng trời quốc gia do VHT chủ trì nghiên cứu và triển khai với Quân chủng PK-KQ.

Năm 2012, nhóm kỹ sư trẻ của VHT nhận nhiệm vụ chế tạo hệ thống VQ giai đoạn 1,  công nghệ mà trước đó chưa một đơn vị nào thực hiện. Chỉ sau 2 năm, hệ thống cảnh giới và bảo vệ vùng trời quốc gia VQ1-M do những kỹ sư trẻ ấy nghiên cứu nghiệm thu thành công cấp Bộ Quốc phòng và được đưa vào phục vụ sẵn sàng chiến đấu cho Quân chủng PK-KQ. Ngày 8/1/2015, hệ thống cảnh giới và bảo vệ vùng trời quốc gia VQ1-M chính thức hoạt động phục vụ quốc phòng Việt Nam. Sự kiện đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam có hệ thống công nghệ cao do chính doanh nghiệp trong nước làm chủ và sản xuất đưa vào trang bị phục vụ quân sự. 

Đánh giá về hệ thống VQ1-M, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Chí, Nguyên Phó tư lệnh Quân chủng PK-KQ cho rằng, đây là một hệ thống tự động hóa tương đối đầy đủ, hiện đại trong lĩnh vực cảnh giới và quản lý vùng trời quốc gia; đánh dấu một bước chuyển đổi mới, căn bản, mang tính đột phá về phương thức thu thập, xử lý, thông báo, báo động tình hình trên không cho tác chiến PK-KQ. Thông tin về tình hình trên không được quản lý, thông báo đầy đủ, kịp thời, chính xác, tin cậy và gần như tức thời; quản lý đồng thời số lượng mục tiêu lớn, mật độ cao...

Thiếu tá Lê Trần Sự, Giám đốc Trung tâm Chỉ huy điều khiển (VHT) cho biết hệ thống VQM-1 đã tạo ra bức tranh toàn cảnh tình hình trên không với thời gian gần như là thời gian thực. Tình hình trên không sau đó sẽ được phân phối đến tất cả các đầu mối có nhu cầu sử dụng là hệ thống sở chỉ huy phòng không các cấp trong toàn quân. Khi chưa có VQ1-M, hệ thống VQ9801 được sử dụng nhưng hệ thống này mới chỉ nằm ở khu vực miền Bắc. Các thiết bị cả về phần cứng và hệ thống phần mềm đều do nước ngoài cung cấp. Khi có hệ thống VQM-1, quân đội có thể tích hợp kết quả của tất cả các phương tiện trinh sát. Trước Việt Nam, chỉ có 8 quốc gia có nền công nghệ và tiềm lực kinh tế đủ khả năng nghiên cứu chế tạo thành công sản phẩm có tính năng tương tự. 

Thiếu tá Lê Trần Sự nhắc tới câu chuyện trước khi nghiên cứu VQ1-M, một đối tác nước ngoài đã chào hàng hệ thống tương tự tới Viettel với giá 100 triệu USD. Khi Viettel đặt vấn đề chuyển giao công nghệ, đối tác không đồng ý. Ba tháng sau, Viettel đã đạt được những bước tiến rất đáng kể trong việc nghiên cứu hệ thống nói trên. Khi ấy, đối tác quay lại đồng ý chuyển giao công nghệ với giá 60 triệu USD, Viettel không chấp nhận. Sau đó, khi nhìn những gì Viettel làm được, con số đối tác đưa ra tiếp tục giảm xuống còn 20 triệu USD. Thiếu tá Lê Trần Sự nhấn mạnh, bất kỳ vũ khí trang bị phải nhập khẩu từ nước ngoài đều ẩn chứa sự phụ thuộc khi hỏng hóc hay nâng cấp. Việc làm chủ công nghệ từ thiết kế nguyên lý, đến viết phần mềm điều khiển toàn bộ hoạt động của hệ thống chỉ huy điều khiển có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ về mặt kinh tế, kỹ thuật mà lớn hơn là giữ được bí mật quân sự.

THÀNH CÔNG VỚI HỆ THỐNG VQ2 VÀ HƯỚNG TỚI TRANG BỊ CHO TOÀN QUÂN

Sau khi thành công với hệ thống VQ1-M, năm 2016 các kỹ sư của VHT bắt tay vào nghiên cứu hệ thống VQ2. Hệ thống có năng lực tự động hóa chỉ huy, điều hành tác chiến PK-KQ hiện đại, thực hiện chức năng bảo vệ vùng trời Quốc gia. Ở giai đoạn này, các kỹ sư gặp khó trong quá trình ứng dụng công nghệ vào hệ thống chỉ huy điều khiển. Bởi đây là việc làm phức tạp, đòi hỏi lượng tri thức lớn của những người lập trình. Muốn xây dựng hệ thống chỉ huy điều khiển thông minh phải áp dụng lý thuyết toán học, lập trình thuật toán xử lý thông tin. Khi dữ liệu trả về, hệ thống phải phân tích và hiểu được đâu là mục tiêu thật, đâu là nhiễu. Ví dụ, đối với hệ thống chỉ huy điều khiển cho phòng không, khi tín hiệu ra-đa phát hiện điểm dấu, dù nhiễu có  chuyển động nhưng hệ thống phải phân biệt được đấy là mây hay máy bay. Thuật toán phải căn cứ vào tính chất mục tiêu lọc ra nhiễu và xác định được đâu là mục tiêu trùng và hợp nhất mục tiêu.

Mô hình hệ thống tự động hóa chỉ huy ngành Tác chiến điện tử đang được VHT nghiên cứu và hoàn thiện, góp phần hoàn thiện hệ thống hoàn chỉnh

Thiếu tá Lê Trần Sự cho biết, để phủ kín toàn diện trận địa, nhiều trạm ra-đa được kích hoạt. Khi ấy, xảy ra bài toán là 2 ra-đa cùng truyền thông tin về trung tâm hệ thống chỉ huy điều khiển. Tuy bản chất là 1 mục tiêu nhưng 2 ra-đa trả về 2 thông số, hệ thống cần dùng thuật toán xác định đấy là một mục tiêu. Khó khăn tiếp theo đó là thông tin truyền về có sai số, ví dụ như tín hiệu cho thấy cách 5km nhưng thực tế không phải vậy nên cần cộng biến số, hệ thống khi ấy phải tính toán được cả yếu tố đó. Đối với hệ thống đánh giá tình huống, các kỹ sư áp dụng công nghệ học máy, AI, Big Data. Hệ thống được cập nhật liên tục và càng sử dụng nhiều sẽ càng thông minh  vì được tích luỹ dữ liệu.

Sau 2 năm miệt mài nghiên cứu, các kỹ sư của VHT một lần nữa đã thành công chế tạo hệ thống VQ2. Tính đến nay, hệ thống đã được triển khai lắp đặt cho 150 đầu mối của Quân chủng PK-KQ trải dài trên khắp mọi miền Tổ quốc từ cực Bắc đến cực Nam, từ biên giới đến hải đảo… Ngoài ra, VHT cũng đã triển khai Hệ thống VQ cho Cục Tác chiến điện tử, Lục quân và đều được các đơn vị này đánh giá cao. 

Chia sẻ về định hướng phát triển hệ thống VQ trong thời gian tới, Thiếu tá Lê Trần Sự cho biết: “VHT hướng tới phát triển các hệ thống Chỉ huy điều khiển chú trọng vào các yếu tố như: Kiến trúc mở, khả năng mở rộng hệ thống lớn, có khả năng tích hợp các đơn vị tác chiến khác nhau, truyền thông tin và giao mệnh lệnh đến từng người lính, kết nối các trang thiết bị vào hệ thống nhằm bảo đảm khả năng phối hợp tác chiến thời gian thực. Dự kiến trong năm 2022, VHT sẽ hoàn thành hệ thống VQ cho Hải quân và đến 2025 sẽ trang bị hệ thống VQ cho toàn quân.”